Mô hình canh tác tôm – lúa là một giải pháp bền vững và có tiềm năng lớn trong phát triển kinh tế nông thôn. Mô hình này không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giảm thiểu tác động tiêu cực từ hoạt động nuôi tôm đối với môi trường. Theo đó để mô hình này phát triển bền vững, bà con nông dân cần phải chú trọng đến việc duy trì độ mặn ổn định, cải thiện chất lượng nước, sử dụng giống tôm và giống lúa chất lượng cao và đặc biệt là tuân thủ các quy trình kỹ thuật canh tác nghiêm ngặt.

1. Công trình ao nuôi:
– Có hệ thống bờ bao xung quanh chắc chắn (mặt bờ rộng 2-3m), đảm bảo giữ nước tốt và ổn định trong quá trình nuôi ở mức cao hơn 0,6 m (trên mặt trảng); mương bao xung quanh chiếm khoảng 20-25% diện tích ruộng nuôi (rộng 2,5 đến 3 m, sâu từ 1-1,2 m).
– Nên xây dựng khu ao chứa (lắng) để chủ động cấp bổ sung cho khu nuôi khi cần thiết (khi mực nước trên ruộng thấp dưới 0,6 m), nhằm hạn chế tình trạng nước trong ruộng nuôi thấp, các yếu tố môi trường (nhất là nhiệt độ) biến động ảnh hưởng xấu đến sức khỏe tôm nuôi.
2. Cải tạo, chuẩn bị ruộng nuôi:
– Vệ sinh và dọn sạch rong, cỏ và gia cố bờ bao, cống,..
– Xử lý để gốc rạ phân hủy (đối với mô hình nuôi tôm-lúa), nhằm hạn chế tình trạng phân hủy cục bộ; trục hoặc tháo nước và xới mặt ruộng; rửa mặt ruộng để loại bỏ bớt bùn, các khí độc và giảm các chất dinh dưỡng ở mặt ruộng nhằm hạn chế rong tạp, tảo đáy phát triển, nước ao/ruộng có độ trong cao (> 40 cm) kéo theo nhiệt độ nước tăng cao và biến động lớn ảnh ảnh hưởng xấu đến sức khỏe tôm nuôi.
– Sên vét bớt bùn đen ở đáy ở mương, bón vôi và kết hợp phơi mặt ruộng, đáy mương theo để khử phèn, diệt tạp, diệt mầm bệnh, hạn chế sự phát triển của rong tạp, tảo ở đáy.
– Chọn con nước lớn có độ trong cao, ít chất lơ lửng và không bị phát sáng để bơm vào ao lắng hay cấp trực tiếp vào ruộng nuôi đạt mức 0,6-0,8 m.
– Khử trùng (diệt mầm bệnh trong nước) bằng Iodine (30%) với liều lượng 01 ml/m3 hoặc thuốc tím (KmnO4) với lượng 02 g/m3 nước; sau 2-3 ngày tiến hành gây màu nước nhằm chuẩn bị nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm sau khỉ thả nuôi, vừa giúp hạn chế biến động nhiệt độ nước và ngăn ngừa rong tạp, tảo đáy phát triển.
3. Chọn giống:
– Con giống được mua ở trại giống uy tín, có nguồn gốc rõ ràng, có giấy chứng nhận kiểm dịch, xét nghiệm bệnh.
– Chọn tôm giống có kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng, bơi lội linh hoạt, không bị dị hình…

4. Quản lý các yếu tố môi trường
– Đo pH hai lần mỗi ngày, lúc khoảng 6-7 giờ và 14-15 giờ bằng dụng cụ đo pH như máy đo điện tử, hộp giấy hoặc bằng dung dịch so màu; nếu pH nước nhỏ hơn 7,5 cần hòa vôi nông nghiệp CaCO3 với nước tạt khắp ao ruộng nuôi với liều lượng 10-15 kg/1.000 m3. Tuy nhiên, do ảnh hưởng nắng hạn, nhiệt độ và độ mặn cao nên nước ở các ao, ruộng nuôi tôm thường có xu hướng tăng pH, khi pH tăng cao trên 8,5 cần kịp thời dùng rỉ đường (khoảng 3 kg/1.000 m3 nước ao) kết hợp với chế phẩm vi sinh để xử lý hoặc dùng thể dùng Acid acetic 3lít/1.000 m3 cũng có tác dụng giảm pH nước.
– Nhiệt độ là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sinh lý của động vật và thực vật thủy sinh, trong đó có tôm nuôi; khi nhiệt độ nước tăng cao hoặc biến động lớn thường làm rối loạn hoạt động sinh lý bình thường của tôm, làm cho tôm suy yếu và chết hoặc dễ mẫn cảm với mầm bệnh. Nhiệt độ thích hợp cho tôm phát triển từ 28-310C và dao động không quá 50C/ngày, do đó trong điều kiện nắng nóng như hiện nay, cần đo nhiệt độ nước ở tầng đáy (đo bằng nhiệt kế) 2 lần/ngày vào lúc 6-7 giờ sáng và 2-3 giờ chiều để xác định nhiệt độ trung bình và mức dao động trong ngày để kịp thời xử lý.
– Khi mực nước trong ao, ruộng nuôi càng thấp (cạn) và độ trong cao (hơn 40 cm) thì nhiệt độ nước biến động càng lớn. Do đó cần có khu ao chứa, lắng nước để xử lý và cấp bổ sung cho ao-ruộng đang nuôi kịp thời; trường hợp không có xây dựng khu ao chứa (lắng) có thể tận dụng hệ thống mương vườn để chứa nước. Nước được bơm từ kênh cấp (qua túi lọc) vào ao chứa, xử lý khử trùng bằng Iodine (30%) 1-1,5 ml/m3 nước hoặc thuốc tím (KmnO4) 2-3 g/m3 nước, sau 48 giờ tiến hành bơm nước từ ao lắng cấp bổ sung vào khu ruộng nuôi để duy trì mức nước tối thiểu 0,6 m (tính từ mặt ruộng). Sau mỗi lần cấp bổ sung nước, cần đo độ trong và quan sát màu nước; nếu độ trong nước ao nuôi cao (trên 40 cm), cần bón phân hoặc các chế phẩm vi sinh để gây màu nước.
– Duy trì độ trong thích hợp 30-40 cm để ổn định các yếu tố môi trường ao nuôi, hạn chế rong tạp phát triển; sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý nước (khoảng 7-10 ngày/lần) nhằm giúp ổn định độ trong nước. Duy trì mực nước trên mặt ruộng ở mức tối thiểu là 0,6 m (tốt nhất 0,6-0,8 m) và ổn định màu nước, độ trong để hạn chế biến động nhiệt độ nước.

5. Biện pháp phòng bệnh tổng hợp
– Xây dựng và cải tạo ao tốt, sạch; chọn tôm giống sạch bệnh.
– Nước cấp không có mầm bệnh hoặc xử lý mầm bệnh kỹ trước khi thả giống.
– Cung cấp thức ăn và các chất bổ sung đầy đủ cho tôm nuôi.
– Ngừa giáp xác, chim… xâm nhập mang mầm bệnh vào khu ao, ruộng nuôi lây bênh cho tôm.
– Giống tốt, mật độ vừa phải; tránh lây lan mầm bệnh do con người, dụng cụ, thức ăn…
– Đảm bảo các yếu tố môi trường ao nuôi ở mức tối ưu; Quản lý kỹ chất thải, tránh làm lây lan bệnh./.
6. Phát triển thị trường và liên kết chuỗi giá trị
– Sản phẩm an toàn: Đảm bảo sản phẩm tôm và lúa đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm (VietGAP, GlobalGAP, ASC, BAP…) để nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
– Liên kết sản xuất:
+ Tham gia các hợp tác xã, tổ hợp tác để chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật và liên kết với các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.
+ Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm tôm-lúa.
Bài và ảnh: Ks. Nguyễn Thị Thúy Duy – Bộ phận Khuyến ngư
Biên tập: Lê Giang