Đề án 1 triệu héc-ta không khó đối với nông dân An Giang

Đó là khẳng định của Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang – Trần Thanh Hiệp, qua gần hai năm triển khai thực hiện 55 mô hình theo Đề án Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” (Đề án 1 triệu héc-ta).

Điều này cho thấy hướng đi của Đề án là phù hợp với bối cảnh yêu cầu cao về chất lượng và sản lượng gạo Việt Nam, nông dân đánh giá mô hình giảm về lượng giống gieo sạ và phân bón, tăng năng suất và lợi nhuận. Vì vậy, cần tiếp tục phát huy và nhân rộng thêm nhiều mô hình ở nhiều địa phương khác.

An Giang được đánh giá cao trong phát triển nông nghiệp, đặc biệt diện tích và sản lượng lúa đứng đầu cả nước, năm 2025 chỉ tiêu đặt ra phải đạt 8,8 triệu tấn lúa, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại chỉ đạt được 5 triệu tấn, lộ trình đến cuối năm phải đạt sản lượng số còn lại. Do đó, ngành nông nghiệp từ đây đến cuối năm áp lực nặng nề, chúng ta cùng chung tay thực hiện nhằm lan tỏa mô hình để đạt mục tiêu.

Mô hình canh tác lúa chất lượng cao, giảm chi phí

Mô hình được triển khai ở vụ Hè thu 2025, tại ấp Hiệp Thạnh, xã Bình Thạnh Đông, với diện tích 50 ha, có 11 hộ tham gia áp dụng tiến bộ kỹ thuật theo hướng dẫn của Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta lúa. Bà Nguyễn Thị Mỹ Linh – Phó trưởng Trạm Kỹ thuật nông nghiệp khu vực Phú Tân cho biết, mô hình được thực hiện, giảm lượng giống, phân bón, tưới tiết kiệm nước nhằm giảm phát thải khí nhà kính, áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên nền tảng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM), sử dụng giống OM18 và tập huấn cho nông dân, lượng giống gieo sạ 70 kg/ha. Hàng tuần cán bộ kỹ thuật thăm đồng hướng dẫn nông dân nhận diện sâu bệnh, thiên địch và đề ra hướng xử lý có hiệu quả nhất.

Nông dân phấn khởi khi mô hình thuộc Đề án 1 triệu héc-ta mang lại hiệu quả cao cả về năng suất lẫn chất lượng.

Nông dân đánh giá cao mô hình

Mô hình được bà con nông dân đánh giá cao, ruộng mô hình sạ hàng vùi phân cây lúa phát triển khỏe, lúa nẩy chồi sớm hơn, cây to hơn rễ dài, hạn chế đổ ngã, hạt mẩy màu sáng, năng suất cao hơn ruộng sản xuất theo truyền thống cũ. Kết quả cho thấy năng suất 6.36 tấn ha, cao hơn ruộng đối chứng 0,76 tấn/ha. Lợi nhuận ruộng mô hình cao hơn đối chứng hơn 10 triệu đồng/ha, đặc biệt chi phí vật tư đầu vào giảm đáng kể.

Chú Phạm Hữu Chí, ngụ ấp Hiệp Thạnh, xã Bình Thạnh Đông là một trong những nông dân tham gia mô hình chia sẻ, lúc đầu tôi thấy rất là bỡ ngỡ, vì trước đây tập quán tôi thường sạ dày, từ 150 – 200kg/ha. Khi tham gia mô hình tôi sạ chỉ còn 70kg/ha, sạ hàng vùi phân, nên giảm được lượng giống đáng kể, giảm lượng phân bón và thuốc Bảo vệ thực vật, tiền bơm nước. Ngoài ra, tôi còn được hướng dẫn về kỹ thuật khi gặp những khó khăn được giải quyết kịp thời. Qua đó hạn chế đỗ ngã, giảm khí thải nhà kính. Năng suất tăng hơn đối chứng 500-600kg/ha và được Công ty thu mua đúng ngày, giờ và đúng giá. Do đó lợi nhuận thu về cao so với mô hình đối chứng. Tôi nhận thấy làm ruộng áp dụng theo kỹ thuật Đề án thì mình làm ruộng như bình thường.

Ông Trần Thanh Hiệp – Phó Giám đốc Sở NN và MT đánh giá, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền hai cấp, áp lực cũng như khối lượng công việc rất lớn, do đó ngay từ bây giờ chúng ta nên thay đổi cách làm mới. Đề án 1 triệu hecta không khó thực hiện đối với nông dân tỉnh An Giang. Tuy nhiên, ngành Nông nghiệp chúng ta thay đổi ưu tiên hướng đến các thành viên trong Hợp tác xã về cách làm, định hướng các chính sách, tập huấn và cùng kêu gọi doanh nghiệp đồng hành quyết tâm tham gia mô hình.

Ông Trần Thanh Hiệp – Phó Giám đốc Sở NN và MT (bên phải) và ông Lê Văn Dũng – Phó Giám đốc TTKN An Giang phấn khởi khi mô hình đạt hiệu quả cao.

Thực hiện Đề án 1 triệu hecta, mong mỗi lớn nhất của ngành Nông nghiệp cũng như chính quyền địa phương là dần lan tỏa và số hộ áp dụng ngày càng nhiều để nông dân lợi nhuận càng cao và cùng đẩy mạnh tiến độ kế hoạch chung của tỉnh. Do đó, ông Hiệp yêu cầu tiếp tục chọn điểm và đánh giá thổ nhưỡng địa phương để xây dựng công thức phân bón phù hợp cho từng vùng.

Thời gian tới, sẽ thay đổi theo phương thức Tổ Hợp tác, Hợp tác xã gắn với Tổ Khuyến nông cộng đồng nhằm tuyên truyền thông tin Đề án nhanh chóng. Lập kế hoạch tình hình liên kết giữa các doanh nghiệp, tăng cường công tác tuyên truyền đặc biệt từ những nông dân nồng cốt tham gia mô hình để cùng nông dân lân cận thấy được lợi ích khi thực hiện áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo Đề án, từ đó mạnh dạn thay đổi tư duy trong sản xuất nông nghiệp hướng đến kinh tế nông nghiệp, kinh tế tuần hoàn. Tiếp tục xây dựng các mô hình nhằm lan tỏa từng bước cùng thực hiện theo chuỗi, hoàn thành kế hoạch theo Đề án trước năm 2030.

Bài và ảnh: Trang Nghiêm

Biên tập: Lê Giang