Trong bối cảnh nhu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất lúa gạo ngày càng tăng, giống lúa TĐ25 (còn gọi là Gia Lộc 25) đang nổi lên như một lựa chọn đầy tiềm năng cho các địa phương hướng tới sản xuất quy mô lớn, chất lượng cao.
Giống lúa thuần Gia Lộc 25 (TĐ25) được lai tạo bởi Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển lúa Thuần – Viện Cây lương thực & Cây thực phẩm, từ tổ hợp lai ba Gia Lộc 16/IR85420//IR62. Giống được chính thức công nhận lưu hành theo Quyết định 448/QĐ-TT-CLT ngày 28/11/2023. Đây là giống lúa thuần, thời gian sinh trưởng vụ Đông Xuân khoảng 110 – 115 ngày, vụ Hè Thu khoảng 90 – 95 ngày, phù hợp với lịch thời vụ của An Giang.

Giống TĐ25 đẻ nhánh khỏe, thân cứng, kháng đổ tốt, phù hợp cơ giới hóa. Kháng đạo ôn khá (cấp 3/9), ít bị lem lép hạt. Gạo có tỷ lệ gạo nguyên cao, cơm mềm, vị ngọt nhẹ, thơm dịu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cao cấp. Năng suất thực tế ở nhiều tỉnh đạt từ 6,5 – 7,2 tấn/ha, cao hơn 10 – 15% so với các giống phổ biến như OM5451, IR50404.
Điển hình, vụ Hè Thu 2025, Trạm Khuyến nông huyện Tri Tôn (cũ) và Tịnh Biên (cũ) triển khai mô hình trình diễn giống TĐ25 diện tích 20 ha. Kết quả bước đầu cho thấy cây sinh trưởng khỏe, đẻ nhánh mạnh, ít sâu bệnh, đặc biệt là bệnh đạo ôn và cháy bìa lá. Năng suất bình quân đạt 6,9 – 7,2 tấn/ha, cao hơn giống đối chứng OM18 từ 0,8 – 1 tấn/ha. Giá bán gạo TĐ25 cao hơn trung bình 600 – 800 đồng/kg so với các giống khác, do chất lượng gạo thơm, đẹp, phù hợp chế biến và xuất khẩu. Lợi nhuận bình quân tăng thêm khoảng 6 – 8 triệu đồng/ha so với giống thường. Một số nông hộ tại xã Vĩnh Trung (Tịnh Biên) (cũ) đánh giá: “TĐ25 dễ chăm, ít tốn thuốc, chịu phèn nhẹ tốt, gạo thơm ngon. Nếu có liên kết bao tiêu, chúng tôi sẵn sàng mở rộng diện tích.”

Giống lúa TĐ25 đã và đang cho thấy những ưu điểm vượt trội về năng suất, chất lượng gạo và khả năng thích nghi tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đặc biệt là ở An Giang. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, giá đầu vào tăng cao,… TĐ25 là lựa chọn hứa hẹn giúp nông dân tăng hiệu quả kinh tế và hướng tới nền nông nghiệp xanh – sạch – bền vững. Tuy nhiên, đây là giống lúa mới cần phải quan sát, theo dõi về kỹ thuật canh tác, quản lý dịch hại, bón phân hợp lý, nếu quản lý yếu sẽ ảnh hưởng năng suất. Phù hợp nhất trong vùng đất có điều kiện tưới tiêu tốt; tại vùng khó nước, vùng hạn có thể gặp khó khăn. Cần mở rộng mô hình, khảo nghiệm thêm tại các vùng sinh thái khác để đánh giá tính ổn định của giống.
Bài và ảnh: Xuân Nhường và Minh Hoà