1. Tuân thủ lịch thời vụ
Chọn mùa vụ phù hợp: nên gieo sạ hoặc cấy dứt điểm trong tháng 9, chậm nhất đến ngày 15 tháng 10 hằng năm. Thu hoạch trong tháng 01 hàng năm tránh thiếu nước ngọt cuối vụ. Tuy nhiên nếu sau ngày 15/10 mà chưa gieo sạ thì nên gieo sạ giống có thời gian sinh trưởng ngắn từ 85 – 90 ngày.

2. Chọn giống phù hợp
Nên chọn cấp giống xác nhận để sạ và theo ngành chuyên môn khuyến cáo, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng điạ phương và có hợp đồng tiêu thụ. Một số giống có thể chọn như OM2517, GKG, ST24, ST25, RVT, Một bụi đỏ, Đài thơm 8, OM18, OM 6976, Hương Châu 6, OM5451,…
3. Làm đất kỹ và rửa mặn tốt
– Sau khi thu hoạch tôm xong, tiến hành rút nước cạn để rửa mặn.
– Bón vôi CaO 200-500 kg/ha, xới trục làm thay đổi mặt đất giúp vôi phát huy tác dụng tốt.
– Ngâm nước ngọt 2 – 3 ngày, sau đó xả bỏ, tiếp tục lấy nước ngọt vào rửa, lập lại 2 – 3 lần giúp mặn trong đất được rửa mặn triệt để (có thể tranh thủ lúc mưa để lấy nước hoặc kiểm tra độ mặn trên kênh cấp nước nếu 0‰ thì tiến hành lấy nước vào để rửa mặn).
-Kiểm tra độ mặn nếu 0‰ thì tiến hành gieo sạ hoặc cấy, nên kiểm tra độ mặn trong đất bằng dung dịch nước trích từ đất, sau đó đo bằng khúc xạ kế.
– Trước khi sạ hoặc cấy nên đánh rảnh thoát nước để thao chua rửa mặn và và khắc phục hiện tượng lúa chết vũng. Tùy theo ruộng mà khoảng cách giữa các rảnh từ 6 – 12 m, rảnh sâu 10 – 20 cm và rộng 15-20 cm.
4. Rửa mặn cho vùng đất nhiễm mặn cao
– Đối với vùng đất có thời gian nuôi tôm lâu, khi dùng nước ngọt để rửa mặn không còn tác dụng, do mặn thấm sâu vào đất, mặt dù đo độ mặn nước 0‰, nhưng trong đất có độ dẫn điện dung dịch trích bão hòa ECe (từ 4,1-16 mS/cm) tương đương độ mặn trong đất từ 2,6‰ – 10,2‰.
– Để gieo sạ lúa trên vùng đất nhiễm mặn cao ít gặp rủi ro và thành công thì cần áp dụng một số biện pháp như sau:
+ Rửa mặn bằng nước ngọt giống như nêu ở mục 2.
+ Bón kết hợp phân hữu cơ và vôi trước khi sạ hoặc cấy để phát huy hiệu quả rửa mặn, giúp giảm độ mặn của đất, cải thiện đất nhiễm mặn hiệu quả và gia tăng năng suất lúa trên đất nhiễm mặn. Liều lượng bón 500kg vôi CaO + 1000kg phân hữu cơ hoặc phân hữu cơ vi sinh/ha. Bón xong tiến hành xớt đất để gieo sạ hoặc cấy.
5. Ném mạ thay cho cấy hoặc sạ
– Khuyến cáo chọn phương pháp ném mạ (hay còn gọi là thảy hoặc chọi mạ) thay cho cấy hoặc sạ ở vùng đất nhiễm mặn cao hoặc không có điều kiện rửa mặn tốt.
– Thông thường, lớp đất mỏng chừng 5cm ở tầng mặt đã được rửa mặn triệt để, khi ném mạ giúp rễ không bị tiếp xúc với đất mặn, phần đất còn dính lại trên cây sẽ giúp lúa đứng và nhanh chóng bén rễ trên bề mặt ruộng, đợi những trận mưa tiếp theo, mặn tiếp tục được rửa, cây lúa bén rễ, sinh trưởng và phát triển tốt hơn so với phương pháp cấy hoặc sạ do hạn chế được ngộ độc mặn.
– Áp dụng phương pháp mạ ném, nên chọn giống có thời gian sinh trưởng trên 100 ngày. Thời gian gieo mạ sân để bứng đi ném từ 18 – 22 ngày, cao nhất là 25 ngày là phù hợp. Quá 25 ngày cây mạ sẽ phát triển chậm, khả năng đẻ nhánh sẽ kém. Khoảng cách ném là 20x20cm.

6. Bón bổ sung nấm rễ Mycorrhiza
+ Trong điều kiện stress mặn, nấm rễ Mycorrhiza giúp gia tăng khả năng chịu mặn của cây ký chủ như tăng cường khả năng thu nhận chất dinh dưỡng (P, N, Mg và Ca), ức chế sự hấp thu Na cao trong cây, cải thiện khả năng hút nước, tích lũy proline và tăng một số hệ thống phòng thủ chống oxy hóa bằng enzym do đó nên bón bổ sung nấm rễ Mycorrhiza vào hai giai đoạn lúc lúa được 3-7 ngày và 15-18 ngày sau khi sạ hoặc cấy. Liều lượng bón từ 5 – 10 kg/ha.
7. Xử lý khi cây lúa bị stress mặn
– Trong điều kiện cây lúa bị ảnh hưởng mặn thì có thể sử dụng một số phân bón tăng cường khả năng chịu mặn cho lúa như: Brassinosteroids (Nyro, Vitazyme ), Greensal, Hydrophos, CaMaSi, KNO3,…liều lượng theo khuyến cáo nhà sản xuất.
8. Quản lý nước
– Trong suốt giai đoạn sinh trưởng cây lúa luôn luôn giữ nước trong ruộng tốt nhất nên cho nước ngập 2/3 chiều cao cây lúa.
– Trong giai đoạn sinh trưởng, sau khi bón phân lần 2 khoảng 7 – 10 ngày, tranh thủ những đợt mưa có thể rút nước để giảm độ chua, hạn chế chồi vô hiệu và đổ ngã cây lúa.
– Tranh thủ những đợt mưa cuối vụ trữ nước ngọt lại trong ruông tránh thiếu nước ngọt trong ruộng, không để thiếu nước trong giai đoạn trổ đến chín.
Bài và ảnh: Huỳnh Minh Khai