Thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng nông sản, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong và ngoài nước, thời gian qua, tỉnh An Giang đã chú trọng triển khai công tác quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu.
Ngành Nông nghiệp thiết lập các vùng cây trồng chủ lực của tỉnh, thực hiện công tác cấp, quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói trong lĩnh vực trồng trọt theo quy định nhằm phục vụ liên kết tiêu thụ nông sản trong nước cũng như xuất khẩu. Thực hiện mục tiêu của “Đề án phát triển bền vững một triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” tại An Giang.
Thực hiện cấp mã số vùng trồng để thực hiện tiêu chí 13.6 cho các xã theo lộ trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh. Tổ chức lại sản xuất tại các vùng trồng theo hướng thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, truy xuất nguồn gốc nông sản phục vụ thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Đến nay diện tích cấp mã số vùng trồng đạt 233.730 ha, trong đó cây lúa 221.783/610.778 ha; cây ăn trái 9.942/42.858 ha và cây rau màu 2.013/4.547 ha. Riêng năm 2025 diện tích được cấp mã số vùng trồng là: 160.558 ha, cụ thể: Cây lúa 154.166 ha (trong đó diện tích lúa được cấp mã số theo lộ trình của “Đề án 1 triệu ha” năm 2025 là 144.412 ha), cây ăn trái 5.050 ha, cây rau màu 1.342 ha. Công tác cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói được thực thiện theo nhu cầu của các tổ chức, cá nhân, HTX, THT trên địa bàn tỉnh.

Tổ chức thực hiện lấy mẫu đất, nước phân tích chỉ tiêu kim loại nặng (Cd, Pb) tại các vùng trồng theo lộ trình Đề án. Tổng số mẫu đất, nước cần lấy của 79 phường, xã là 79 mẫu, trong đó đã thực hiện phân tích 30 mẫu đất, nước trong năm 2024, năm 2025 tiếp tục tổ chức lấy 49 mẫu đất, nước phân tích 02 chỉ tiêu Cd và Pb.
Kế hoạch trong năm 2025 cấp 25 mã số đóng gói, chỉ tiêu kế hoạch cấp theo nhu cầu thị trường và nhu cầu của doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu đề nghị.
Tổ chức thực hiện giám sát 100% vùng trồng, cơ sở đóng gói đã cấp để duy trì mã số, kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói tại địa phương. Kiểm tra việc chấp hành các quy định về duy trì mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói, các quy định về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Từ nay đến cuối năm thực hiện giám sát 36 vùng trồng xuất khẩu và mã số cơ sở đóng gói trên địa bàn tỉnh.

Việc cấp mã số vùng trồng không chỉ đảm bảo tính minh bạch trong truy xuất nguồn gốc mà còn giúp nông dân thay đổi tập quán sản xuất theo hướng an toàn, bền vững. Các cơ sở đóng gói được quản lý chặt chẽ, tuân thủ quy trình vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần xây dựng thương hiệu nông sản An Giang uy tín trên thị trường.
Trong thời gian tới, An Giang sẽ tiếp tục tăng cường tập huấn, hướng dẫn nông dân và hợp tác xã sản xuất theo đúng quy trình, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc duy trì mã số vùng trồng và hoạt động của các cơ sở đóng gói. Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp cũng khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã ứng dụng công nghệ số trong quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản trên thị trường xuất khẩu.
Với những giải pháp đồng bộ, ngành Nông nghiệp kỳ vọng tiếp tục mở rộng diện tích vùng trồng đạt chuẩn, nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, tăng thu nhập cho nông dân./.
Bài và ảnh: Phan Phi Hùng